Menu

Long Hoa là cây gì?

(龍華樹) Long hoa, Phạm: Nàga-puwpa. Cũng gọi Na già thụ, Long hoa bồ đề thụ. Gọi tắt: Long hoa. Tên khoa học: Mesuna roxburghü Wigh, hoặc Mesuna ferrea L. Cây Long hoa, nơi bồ tát Di lặc thành Phật.Cây Long hoa thuộc loại kiều mộc (cây cao, cành cong), họ cây đào, thân cây giống như cây Thiết đao (dao sắt), thẳng đứng, da cây bóng láng. Lá hình trứng và dài, đầu lá nhọn rủ xuống, cánh hoa màu trắng, quả to bằng quả hồ đào. Hoặc có thuyết cho rằng chùm hoa giống như đầu rồng, cành cây giống như mình rồng, vì thế gọi là cây Long hoa. Loại cây này thường mọc nhiều ở vùng Bengal, hoặc 2 bên bờ đông tây bán đảo Ấn độ và quần đảo An đạt mạn v.v… [X. kinh Tăng nhất a hàm Q.44; kinh Di lặc hạ sinh; kinh Di lặc thành Phật; phẩm Dị hành trong luận Thập trụ tì bà sa Q.5; Pháp uyển châu lâm Q.24].

Mesua ferrea (cây sắt Tích Lan, cây gỗ sắt, cây hạt dẻ hoa hồng Ấn Độ, nghệ rắn hổ mang, Penaga lilin, Na [tiếng Sinhala] hoặc Nahar/Nahor) là một loài cây thuộc họ Clusiaceae. Cây được đặt tên theo đặc tính nặng của gỗ và được trồng trong các vùng khí hậu nhiệt đới để làm cây cảnh nhờ vào hình dáng, tán lá, và hoa thơm. Cây có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới Ấn Độ, Sri Lanka, Campuchia, bán đảo Mã Lai, Indonesia và cũng được trồng ở Assam, miền nam Nepal, và Đông Dương.

Đây là một loại cây xanh trung bình đến cao, có thể đạt đến 30 mét, với tán lá hình nón đều đặn, dày đặc và màu xanh đậm. Đây là loại cây phát triển rất chậm, thường thấy ở vùng ẩm ướt, ở độ cao lên đến 1.500 mét tại Sri Lanka. Lá của cây dài, hẹp, có dạng bầu dục thuôn, màu xanh đậm và mặt dưới hơi trắng xám; lá non khi mới mọc có màu đỏ đến hồng vàng nhạt và hơi rủ xuống, trong khi lá già có màu xanh đậm. Hoa lớn có đường kính 4-7,5 cm, gồm bốn cánh trắng và ở giữa là nhiều nhị màu vàng. Hoa có mùi thơm dễ chịu nhưng thời gian nở hoa không đều. Quả có hình bầu dục, hình nón, màu nâu đậm, chứa từ một đến bốn hạt dẹt. Thân cây thường có rễ nổi ở gốc, đường kính thân có thể lên tới hai mét. Vỏ cây có màu nâu đỏ xám, có rãnh nông và dễ bong tróc.

Cây này được trồng dọc theo các lề đường nhờ vào vẻ đẹp của lá.

Gỗ của cây rất nặng, cứng và chắc chắn. Khối lượng của gỗ vào khoảng 72 lb trên mỗi foot khối, và mật độ là 1,12 kg/m³. Gỗ có màu đỏ đậm. Gỗ khá khó xẻ và gia công, nhưng được sử dụng trong xây dựng đường sắt, các công trình gỗ lớn, đóng tàu, chống đỡ trong mỏ, làm cán dụng cụ, v.v.

Nhựa của cây hơi độc, nhưng các bộ phận khác của cây có tính chất dược liệu. Cây giúp cải thiện và làm đẹp da nhờ vào khả năng tái tạo làn da tươi sáng. Lá cây được dùng để điều trị sốt, đau mắt và bệnh phong. Hoa có tác dụng làm dịu, hỗ trợ tiêu hóa, giảm đau dạ dày, và có thể gây táo bón. Hoa có lợi trong các tình trạng như hen suyễn, phong, ho, sốt, nôn mửa và yếu sinh lý. Dầu hạt được coi là rất hữu ích trong các tình trạng như bệnh vata (liên quan đến thần kinh và khớp) và các bệnh ngoài da. Hoa khô được dùng để trị bệnh trĩ ra máu và lỵ có nhầy. Hoa tươi có tác dụng trị ngứa, buồn nôn, viêm mô tế bào, bệnh trĩ ra máu, rong huyết, băng huyết, khát nước quá mức và đổ mồ hôi. Nhị hoa thơm được dùng làm gối và nệm cho giường tân hôn. Dầu từ hạt dùng để điều trị lở loét, ghẻ, vết thương và thấp khớp. Nhị hoa và dầu hạt còn giúp kiểm soát chảy máu quá nhiều.

Dầu hạt còn được dùng làm chất bôi trơn và sản xuất xà phòng.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *